Thực trạng- thách thức và định hướng quản lý sử dụng tài nguyên nước nhằm phát triển bền vững ĐBSCL

29/09/2017
Aa

Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối nguồn sông Mê Công, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, với diện tích tự nhiên chiếm 12%, dân số chiếm 20%, GDP chiếm 17%, diện tích trồng lúa chiếm 47%, sản lượng gạo chiếm 56%, xuất khẩu thủy sản chiếm 60% của cả nước. Đây là vùng được đánh giá là một trong ba đồng bằng châu thổ lớn của thế giới bị đe dọa nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, do phát triển kinh tế, xã hội, việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở các nước thượng nguồn sông Mê Công ngày càng gia tăng. Cùng với đó, áp lực từ việc gia tăng dân số, phát triển kinh tế, xã hội sẽ kéo theo hàng loạt những thách thức từ chính nội tại vùng ĐBSCL như gia tăng lũ, ngập lụt, xâm nhập mặn vào sâu, khai thác nước quá mức, môi trường nước và suy giảm đa dạng sinh học, suy giảm phù sa, bùn cát, dinh dưỡng và suy giảm nguồn lợi thủy sản ... Điều này đã tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế-xã hội của vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung.

Tài nguyên nước nước dưới đất và suy giảm mực nước vùng ĐBSCL

ĐBSCL là một trong các vùng có tiềm năng nước dưới đất lớn nhất nước ta, gồm 07 tầng chứa nước chính, chiều sâu phân bố từ vài chục mét đến 500­600m. Các khu vực tiềm năng nguồn nước (nhạt) lớn gồm: Bạc Liêu, Long An, Đồng Tháp, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ. Trữ lượng khai thác tiềm năng nước nhạt khoảng 22,5 triệu m 3 /ngày, trữ lượng tiềm năng nước lợ, mặn khoảng 39 triệu m 3 /ngày. Trong đó, trù: lương khai thac an toàn nước nhạt toàn vùng khoảng 4,5 triệu m 3 /ngay.

Nguồn nước dưới đất có vai trò đặc biệt trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt đô thị, nông thôn, công nghiệp ở ĐBSCL (80% dân số nông thôn sử dụng nguồn nước dưới đất, nhiều đô thị phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước dưới đất, như các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh....).

Theo thống kê sơ bộ, trên toàn vùng có khoảng 02 triệu giếng khoan khai thác nước dưới đất. Trong đó, có trên 550.000 giếng khoan khai thác với quy mô tương đối lớn, với tổng lượng nước khai thác khoảng 02 triệu m 3 /ngày.

Kết quả tài liệu quan trắc nước dưới đất của Bộ Tài nguyên và Môi trường từ năm 1995 đến nay cho thấy, mực nước của hầu hết các tầng chứa nước ở vùng ĐBSCL đều có xu hướng suy giảm với các mức độ khác nhau, lớn nhất là 0,93m/năm, trung bình khoảng 0,2 đến 0,4m/năm và có nhiều vùng suy giảm không đáng kể hoặc không suy giảm. Trong đó, các tầng chứa nước có chiều sâu trung bình, lớn và là đối tượng khai thác chủ yếu có mức độ suy giảm lớn hơn các tầng chứa nước nằm nông. Cụ thể như sau:

Các tầng chứa nước nằm sâu (gồm tầng n1 3 , m 1 , n2 2 ): Một số khu vực mực nước có xu hướng suy giảm liên tục, với tốc độ giảm từ gần 0,3 đến 0,9 m/năm. Trong đó khu vực có tốc độ giảm mực nước lớn là: Long An, Cà Mau, Trà Vinh, suy giảm từ 0,5 đến 0,9m/năm (khu vực thành phố Cà Mau có tốc độ suy giảm lớn nhất từ 0,6 đến 0,9 m/năm). Các khu vực Hậu Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Vĩnh Long có tốc độ suy giảm mực nước trung bình khoảng từ 0,3 đến 0,5m/năm. Các khu vực còn lại có tốc độ giảm nhỏ hơn, trung bình khoảng từ 0,2 đến 0,3m/năm hoặc không suy giảm;

Các tầng chứa nước nằm ở độ sâu trung bình (gồm tầng qpi, qp2 3 ): Tại một số khu vực mực nước cũng đang có xu hướng giảm, với tốc độ giảm từ 0,3 đến 0,93m/năm, trong đó tại khu vực thành phố Cà Mau có tốc độ giảm mực nước lớn nhất (0,93m/năm). Các khu vực Hậu Giang, Long An, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng mực nước suy giảm trung bình từ 0,3 đến 0,5m/năm. Riêng tại khu vực Đồng Tháp mực nước các tầng này khá ổn định;

Các tầng chứa nước nằm nông (gồm tầng qp3 và qh): Mực nước khá ổn định, không bị suy giảm hoặc suy giảm không đáng kể (từ 0 đến 0,15m/năm). Riêng tại khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu, mực nước các tầng này có xu hướng dâng lên theo thời gian.Nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm mực nước dưới đất:

Do cấu tạo địa chất của ĐBSCL, nước dưới đất ở đây tồn tại trong một cấu trúc dạng “bồn” với nhiều tầng chứa nước xen lẫn các tầng cách nước và thấm nước yếu, có chiều dày tăng dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, tạo nên các tầng chứa nước áp lực (các tầng càng nằm sâu thì áp lực của nước càng lớn);

Do mức độ khai thác nước ngày càng tăng cả về số lượng công trình, quy mô khai thác, nhất là trong khoảng 15 năm trở lại đây. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng suy giảm mực nước ngầm trong vùng, nhất là các khu vực tập trung công trình khai thác lớn.

Xu thế diễn biến nguồn nước vào ĐBSCL thời gian gần đây

Căn cứ vào chuỗi số liệu từ 1996-2016 cho thấy, dòng chảy vào ĐBSCL có xu hướng giảm: Tổng dòng chảy mùa lũ vào ĐBSCL có xu thế giảm, trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,87 tỷ m 3 (tương ứng khoảng 120 m 3 /s), trong đó lượng giảm trên nhánh sông Tiền chiếm 60%. Tổng lượng dòng chảy mùa lũ của các năm 2010, 2012, 2015 và 2016 nhỏ hơn trung bình nhiều năm (chỉ đạt khoảng 75­90% so với TBNN), gây ra sụt giảm lượng trữ nước cho mùa cạn.

Tổng dòng chảy mùa cạn vào ĐBSCL có xu thế giảm, trung bình mỗi năm giảm khoảng 0,18 tỷ m 3 (tương ứng khoảng 11,7 m 3 /s). Tổng dòng chảy mùa cạn vào ĐBSCL của các năm 2010, 2013, 2015 và 2016 nhỏ hơn trung bình nhiều năm (chỉ đạt khoảng 75-90% so với TBNN), đã gây ra hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.

Lưu lượng trung bình tháng lớn nhất tại Tân Châu, Châu Đốc có xu thế giảm. Căn cứ chuỗi số liệu thực đo từ năm 1980 đến năm 2016, rõ ràng là mực nước đỉnh lũ tại Tân Châu, Châu Đốc từ năm 2011 giảm rõ rệt so với xu thế chung.

Lưu lượng tháng kiệt nhất có xu hướng tăng, tuy nhiên giá trị mực nước thấp nhất có xu hướng giảm, đặc biệt từ năm 2005. Điều này có thể do nguyên chính là chế độ vận hành phủ đỉnh hàng ngày và tích nước trong mùa khô của các hồ ở thượng nguồn, bên cạnh đó do tác động của biến đổi khí hậu của những năm gần đây.

ĐBSCL được đánh giá là một trong ba châu thổ lớn của thế giới bị đe dọa nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu. Trong khu vực, việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn, bao gồm cả chuyển nước sang lưu vực sông khác trong khi nhu cầu về nước ngày càng gia tăng.

Các phân tích nêu trên đã chỉ ra rằng, tài nguyên nước ĐBSCL đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng do tác động của biến đổi khí hậu và việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn. Liên quan đến việc xây dựng, vận hành các công trình thủy điện ở thượng nguồn, phía Trung Quốc với khả năng trữ nước, điều tiết của các hồ chứa là rất lớn nếu cũng vận hành với chế độ nêu trên thì sẽ làm trầm trọng thêm mức độ suy giảm nguồn nước về ĐBSCL. Ngược lại, nếu vận hành tốt, không cực đoan thì hệ thống các hồ chứa ở thượng nguồn có khả năng chứa lũ, làm chậm lũ, tăng thêm tổng lượng dòng chảy trong mùa cạn cho hạ lưu trong đó có ĐBSCL. Do chế độ vận hành hạ thấp mực nước, những thay đổi vê dòng chảy và mực nước trong mùa khô năm trung bình và năm kiệt se trầm trọng hơn, đặc biệt bao gồm thêm cả tac đông cua những dư an chuyên nước ở Thái Lan. Dao động mực nước ở hạ du do chế độ vận hành ngày của các nhà máy thủy điện trong mùa khô se trầm trọng, càng về phía hạ du, các dao động mực nước này càng giảm dần.

Sự thay đổi chế độ dòng chảy trong sông sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phạm vi xâm nhập mặn tại ĐBSCL, đặc biệt trong những năm kiệt. Theo kịch bản biến đổi 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu mực nước biển dâng 100 cm và không có các giải pháp ứng phó, ĐBSCL là khu vực có nguy cơ ngập cao (38,9% diện tích). Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%).

Cùng với đó, áp lực từ việc gia tăng dân số, phát triển kinh tế, xã hội sẽ kéo theo hàng loạt những thách thức từ chính nội tại vùng ĐBSCL như gia tăng lũ, xâm nhập mặn vào sâu, khai thác nước quá mức, môi trường nước và suy giảm đa dạng sinh học ...

Những vấn đề trên đã từng xảy ra với các mức độ khác nhau trong thời gian gần đây và đã được bàn luận nhiều trong hội thảo, hội nghị, trao đổi,. Khi những thách thức xuất hiện, cùng với việc thực hiện có hiệu quả các định hướng, giải pháp đề xuất, sẽ tạo ra cơ hội để thể hiện sự quyết tâm thay đổi cơ bản từ nhận thức đến hành động cho: chiến lược phát triển bền vững vùng ĐBSCL theo hướng gia tăng liên kết vùng, tích hợp và thống nhất các chiến lược và quy hoạch phát triển ngành lĩnh vực cho toàn vùng; chuyển đổi các mô hình sản xuất theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu, sống chung với lũ, hạn, mặn...

Định hướng quản lý, sử dụng tài nguyên nước vùng ĐBSCL

Với điều kiện thông tin, dữ liệu, số liệu phục vụ phân tích những vấn đề về thực trạng tài nguyên nước của vùng ĐBSCL chưa đồng bộ, thiếu đầy đủ và toàn diện dẫn đến các kết quả phân tích, đánh giá hiện trạng, dự báo các tác động của biến đổi khí hậu, khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn và nhiều tác động do chính chúng ta gây nên, hay những vấn đề về sụt lún đất, sạt lở bờ sông, bờ biển....còn phải tiếp tục thảo luận làm rõ thêm, nhưng rõ ràng trong tương lai, tài nguyên nước của vùng ĐBSCL sẽ bị biến đổi sâu sắc so với những gì chúng ta đã chứng kiến kể từ khi được hình thành và phát triển cho đến ngày hôm nay.

Phát triển thủy điện ở thượng nguồn sẽ là xu thế chung không thể đảo ngược. Chỉ riêng với kịch bản phát triển 11 công trình thủy điện trên dòng chính (phía Lào và Campuchia), các công trình thủy điện trên dòng nhánh và phương án chuyển nước của Thái Lan, nếu với chế độ vận hành phủ đỉnh hàng ngày, tích nước định kỳ trong mùa khô, có thể dẫn đến suy giảm tổng lượng nước về ĐBSCL trong thời đoạn 10 ngày tới 40%. Cùng với đó, các công trình thủy điện ở thượng nguồn phía Trung Quốc, với khả năng trữ nước, điều tiết rất lớn, nếu cũng vận hành với chế độ nêu trên thì sẽ làm trầm trọng thêm mức độ suy giảm nguồn nước về ĐBSCL. Ngược lại, hệ thống các hồ chứa ở thượng nguồn có khả năng chứa lũ, làm chậm lũ, tăng thêm tổng lượng dòng chảy trong mùa cạn cho hạ lưu trong đó có ĐBSCL. Đồng thời, nếu thực hiện chế độ phát điện hàng ngày thì có thể bổ sung thêm dòng chảy đáng kể cho ĐBSCL. Tuy nhiên, đây là kịch bản không chắc chắn, hoàn toàn phụ thuộc việc quyết định vận hành của các quốc gia thượng nguồn.

Những vấn đề về suy giảm phù sa, bùn cát, dinh dưỡng về ĐBSCL và suy giảm nguồn lợi thủy sản thì dù với kịch bản nào đi chăng nữa, đều là xu hướng không thể đảo ngược.

Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng đến sớm hơn và có thể còn tác động sâu sắc hơn những gì chúng ta đã dự báo, đặc biệt là xâm nhập mặn, nước biển dâng cao có thể làm nhiều vùng đất rộng lớn bị thường xuyên ngập trong nước biển.

Cùng với đó là vấn đề sụt lún đất do các nguyên nhân về cấu trúc địa chất của vùng, các nguyên nhân từ chính chúng ta gây ra như khai thác nước ngầm tập trung hoặc xây dựng kiến trúc hạ tầng tập trung quá mức trên nền đất yếu ... dẫn đến xu thế chung là nhiều khu vực ở ĐBSCL vốn đã thấp, nếu mỗi năm sẽ bị lún thêm khoảng 1-2cm nữa thì đến cuối thập kỷ này phần diện tích bị ngập mặn cũng sẽ tương đương với tác động của BĐKH gây ra. Mặc dù chưa có đủ thông tin số liệu để đánh giá toàn diện về quy mô, mức độ và nguyên nhân sụt lún đất, nhưng rõ ràng đây cũng là một xu thế cần phải được xem xét nhân nhắc kỹ lưỡng trong mọi kịch bản sử dụng nước, sử dụng đất cho phát triển của ĐBSCL trong tương lai.

Thêm vào đó là những hệ quả do chính chúng ta gây ra như quy hoạch, phát triển hạ tầng, phát triển đô thị, khu công nghiệp chưa hợp lý, chưa được xem xét tổng thể, toàn diện giữa các mặt, các vùng, các khía cạnh có liên quan... canh tác lúa, thủy sản thiếu bền vững, rồi kiểm soát lũ, kiểm soát ô nhiễm, nhất là nước thải còn chưa thống nhất, thiếu hiệu quả... đã, đang và sẽ làm cho việc sử dụng nước ở ĐBSCL thiếu tính bền vững, nếu chúng ta không có những thay đổi căn bản có tầm chiến lược.

Trong bối cảnh các tác động kép nêu trên cùng đồng thời xảy ra thì mặc dù còn nhiều vấn đề về tính chất, quy mô, phạm vi mức độ của mỗi tác động cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tổng thể để có thể lượng hóa theo các kịch bản khác nhau, nhưng có những xu thế chắc chắn mà bất kể với kịch bản nào đi chăng nữa cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng để bảo đảm sử dụng nước, phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong những thập niên còn lại của thế kỷ này. Đó là:

Về dòng chảy mùa lũ: Xu hướng chủ đạo sẽ là: tổng lượng lũ giảm, thời gian bắt đầu lũ sẽ chậm lại, đỉnh lũ giảm và thời gian duy trì lũ có thể sẽ kéo dài hơn, muộn hơn. Hệ quả của nó là nhiều vùng, nhiều năm sẽ không có lũ hoặc có lũ nhưng không đáng kể.

Về dòng chảy mùa cạn và xâm nhập mặn: Xu hướng chung sẽ là: tổng lượng nước cả mùa cạn sẽ tăng lên, lưu lượng trung bình từng tháng cũng có thể tăng, nhưng sẽ có những thời kỳ ngắn thì lưu lượng, mực nước bị suy giảm. Hệ quả của nó là thiếu nước ngọt, mặn sẽ xâm nhập sâu, với diện tích rộng hơn, khó kiểm soát hơn và có thể sẽ kéo dài hơn.

Về nước biển dâng, sụt lún đất và ngập mặn, ngập lũ: Xu hướng chung là nước biển dâng cao, trình trạng sụt lún mặt đất vẫn tiếp tục diễn ra và hệ quả của nó là diện tích đất đai có thể bị ngập mặn thường xuyên sẽ lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta đã dự báo trong thời gian gần đây. Đồng thời, xu hướng ngập lũ, bao gồm quy mô, mức độ và thời gian ngập lũ đều gia tăng.

Về phù sa, bùn cát, nguồn lợi thủy sản và hệ sinh thái thủy sinh, sạt lở bờ sông, bờ biển: Suy giảm phù sa, bùn cát, chất dinh dưỡng về ĐBSCL là xu thế không thể đảo ngược được. Hệ quả của nó là suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái và gia tăng sạt lở bờ sông, bờ biển.

Định hướng phát triển ĐBSCL trên cơ sở quản lý, sử dụng nước

Tài nguyên nước - nền tảng cơ bản để phát triển kinh tế, xã ĐBSCL trong tương lai - đã, đang và sẽ tiếp tục biến đổi sâu sắc với hướng nêu trên, đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về cách thức quản lý, sử dụng nước, hạn chế các tiêu cực hay tính bất định, khó lường trước để bảo đảm phát triển bền vững ĐBSCL trong các thập niên còn lại của thế kỷ này.

Theo đó, ngoài những vấn đề chung nêu trên, cần thiết phải xem xét, phân vùng lại căn cứ những vấn đề cơ bản liên quan đến sử dụng nước: mặn - ngọt - lũ như các chuyên gia Hà Lan đã đề xuất. Theo đó, ĐBSCL được phân thành 3 vùng như sau:

- Vùng trên: sống chung với lũ.

- Vùng giữa: bảo đảm cung cấp nước ngọt cho vùng và vùng ven biển, chống lũ an toàn cho các đô thị, khu công nghiệp và khu dân cư.

- Vùng ven biển: sống chung với nước lợ, nước mặn.

Trên cơ sở, việc phân vùng nêu trên, bên cạnh các định hướng, giải pháp quản lý, sử dụng nước chung của cả vùng, cần phải có những định hướng, giải pháp quản lý, sử dụng nước - đất cụ thể cho từng tiểu vùng, gắn với các mục tiêu, yêu cầu cơ bản của từng vùng như đã nêu trên.

Về định hướng chung: Giải quyết vấn về tài nguyên nước, bảo đảm khai thác, sử dụng đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội bền vững vùng ĐBSCL trong bối cảnh nêu trên, đòi hỏi phải có cách nhìn nhận mới về cách thức quản lý, sử dụng nguồn nước. Mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên khả năng thực tế của nguồn nước, cân bằng nước, phù hợp với các xu thế diễn biến nguồn nước trong tương lai và phải bảo đảm tính tổng thể, thống nhất toàn vùng, đồng thời phù hợp với từng tiểu vùng. Theo đó:

Trước hết, là phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong các quy hoạch phát triển trên phạm vi không gian chung của cả vùng, nhưng không phá vỡ tính đặc thù của từng tiểu vùng. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, các quy hoạch ngành, lĩnh vực, đặc biệt là quy hoạch thủy lợi, cấp nước, giao thông thủy, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phải trên cơ sở khả năng thực tế của nguồn nước và những xu thế biến đổi của nguồn nước trong tương lai. Đồng thời, phải bảo đảm các yêu cầu cơ bản đối với từng tiểu vùng: sống chung với lũ - tại vùng trên; bảm đảm nước ngọt, chống lũ an toàn - tại vùng giữa và sống chúng với mặn, lợ ở vùng ven biển.

Thứ hai, quy hoạch tài nguyên nước, các chính sách về quản lý, sử dụng nước phải được đặt trong bối cảnh tác động kép, xu thế biến đổi của tài nguyên nước trong tương lai, kết hợp với những dự báo dài hạn để có các giải pháp phù hợp bảo đảm cấp nước an toàn cho toàn vùng và từng tiểu vùng tiết kiệm nước ngọt, sống chung với hạn và mặn, đảm bảo nước ngọt cho sinh hoạt của người dân và đáp ứng các yêu cầu cơ bản đối với từng tiểu vùng như đã nêu trên.

Thứ ba, có cơ chế quản lý, giám sát việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, thủy lợi, phòng, chống lũ, giao thông, xây dựng... bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trên toàn vùng, không phá vỡ các yêu cầu cơ bản đối với từng tiểu vùng và phải cân nhắc, xem xét kỹ, ưu tiên các giải pháp không hối tiếc.

Thứ tư, không thể tách rời tài nguyên nước của ĐBSCL với những vấn đề về khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mê Công. Vấn đề cơ bản, cốt lõi là giải quyết trên phạm vi toàn lưu vực, bao gồm cả 6 quốc gia có chung dòng sông Mê Công. Để bảo đảm an ninh nguồn nước đối với đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh các tác động kép, cần tiếp tục kiên trì hợp tác, đấu tranh bằng các hình thức đa dạng, phù hợp, trên nhiều diễn đàn nhằm bảo đảm khai thác sử dụng công bằng hợp lý nguồn nước chung của 6 quốc gia trên lưu vực sông Mê Công và bảo đảm sử dụng nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng không được gây hại đáng kể cho các quốc gia khác theo Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy và thông lệ quốc tế.

Về định hướng đối với từng vùng:

-Đối với Vùng trên của ĐBSCL: Bảo đảm yêu cầu sống chung với lũ và trữ nước. Theo đó cần phát triển ngành nông nghiệp dựa vào lũ và thực hiện các giải pháp để phòng lũ, tiêu thoát lũ, tạo không gian trữ lũ và dự trữ không gian cho hệ thống tiêu thoát lũ, kiểm soát lũ.

-Đối với Vùng giữa ĐBSCL: Bảo đảm yêu cầu cung cấp nước ngọt, chống lũ an toàn cho các khu vực trọng yếu. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp để kiểm soát nước ngọt, nước mặn tại các dòng sông, trữ nước ngọt trong kênh, rạch, chống lũ an toàn cho các đô thị, khu công nghiệp, khu vực nông thôn và các khu vực quốc phòng, an ninh và các giải pháp để bảo đảm cung cấp nước ngọt cho nội vùng và vùng ven biển.

-Đối với Vùng ven biển: thực hiện sống chung với nước mặn. Cần chuyển đổi căn bản sang nền kinh tế nước lợ, nước mặn và thực hiện các giải pháp bảo vệ bờ biển theo hướng kết hợp khôi phục, phát triển, mở rộng không gian rừng ngập mặn kết hợp với công trình gia cố bờ biển ở những khu vực thích hợp; thực hiện giải pháp công trình mềm (không kết hợp với đường giao thông, tạo không gian để phát triển rừng ngập mặn ngoài đê...).

Để bảo đảm quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên nước vùng ĐBSCL, đáp ứng các yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, xã hội theo hướng phù hợp với quy luật tự nhiên, hài hòa giữa các ngành, địa phương và bảo quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước trên toàn vùng, trong thời gian tới cần tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách, pháp luật về tài nguyên nước cho phù hợp. Đồng thời, xây dựng và vận hành mạng quan trắc, giám sát tài nguyên nước, xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả vùng; xây dựng quy hoạch tài nguyên nước.... Cùng với đó cần phải đổi mới cơ chế điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước vùng ĐBSCL, gắn với các hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn./.



Ý kiến bạn đọc